Chủ Nhật, 12 tháng 8, 2012

BỆNH VIỆN DA LIỄU QUỐC GIA



A. Lịch sử hình thành

Ngày 30/3/2006 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 486/QĐ-TTg về việc thành lập Viện Da liễu Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế với tiền thân ban đầu là Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai.

B. Chức năng nhiệm vụ

1. Viện Da liễu Quốc gia là Viện chuyên khoa đầu ngành về Phong - Da liễu có chức năng

2. Viện Da liễu Quốc gia có các nhiệm vụ:

a) Nghiên cứu mô hình bệnh tật, các phương pháp chẩn đoán, điều trị, dự phòng và phục hồi chức năng các bệnh thuộc chuyên ngành bệnh Phong và Da liễu:

b) Đào tạo cán bộ

c) Công tác khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng

d) Chỉ đạo tuyến

e) Hợp tác quốc tế

C. Hệ thống tổ chức của Viện Da liễu hiện nay gồm khối các khoa phòng chức năng, các khoa lâm sàng và các khoa cận lâm sàng

1. Các phòng chức năng

a. Phòng tổ chức hành chính

b. Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học

c. Phòng hợp tác quốc tế

d. Phòng chỉ đạo ngành

- Xưởng giày dép chỉnh hình

e. Phòng tài chính kế toán

f. Phòng kế hoạch tổng hợp – quản trị - vật tư và thiết bị y tế

g. Phòng y tế cơ quan

2. Các khoa lâm sàng

a. Khoa khám bệnh

b. Khoa điều trị bệnh phong và laser – phẫu thuật

i. Bệnh nhân phong nội trú

ii. Vật lý trị liệu, UVA - UVB

iii. Laser

iv. Phẫu thuật

v. Chăm sóc da thẩm mỹ

c. Khoa điều trị bệnh da phụ nữ và trẻ em

d. Khoa điều trị bệnh da nam giới

3. Các khoa cận lâm sàng

a. Khoa dược

b. Khoa xét nghiệm

i. Phòng vi sinh – nấm

ii. Phòng giải phẫu bệnh

iii. Phòng huyết thanh

iv. Phòng sinh hóa – huyết học

v. Phòng miễn dịch

Ngoài ra, Viện còn có:

- Đảng bộ

- Công đoàn

- Chi đoàn

- Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội

- Hội đồng thi đua khen thưởng

- Hội đồng bảo hộ lao động

- Hội động khoa học kỹ thuật

- Hội đồng lương

- Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học

D. Thành quả đạt được

Từ khi thành lập Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai cho tới nay là Viện Da liễu Quốc gia, Viện đã thực hiện và chỉ đạo được một số công việc nổi bật sau:

1. Xây dựng màng lưới chuyên khoa: Cho tới nay 100% các tỉnh/thành (64/64) trong cả nước đều đã có cơ sở chuyên khoa Da liễu. Tuỳ theo điều kiện cụ thể về tổ chức biên chế cán bộ, theo địa dư và theo phương pháp quản lý của từng địa phương mà các cơ sở Da liễu ở từng địa phương mang những tên gọi khác nhau (Bệnh viện Da liễu; Bệnh viện Phong và Da liễu; Trung tâm Da liễu; Trạm Da liễu; tổ Da liễu nằm trong Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm Da liễu), nhưng chức năng, nhiệm vụ công tác và mục tiêu hoạt động chuyên khoa đều thống nhất.

2. Hợp tác quốc tế:

Từ những năm đầu tiên, khi mới về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai, Khoa đã nhận được sự giúp đỡ và hợp tác nghiên cứu khoa học của các nước xã hội chủ nghĩa :

- Năm 1957-1958 : Đoàn chuyên gia Liên Xô (cũ) sang giúp ta phát hiện các bệnh hoa liễu ở Tây Bắc, Phát Diệm Ninh Bình và một vài thành phố và thị xã trên miền Bắc. Ŀồng thời chi viện cho chúng ta nhiều thuốc men và hoá chất phục vụ công tác này.

- Từ năm 1959-1962 :

 Bác sĩ Vulcan, chuyên gia Rumani sang hợp tác cùng Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai khám phát hiện và điều trị bệnh phong taị huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, huyện Vĩnh Tương tỉnh Vĩnh Phúc.

 Các chuyên gia : Kudela (Tiệp Khắc), Stoyanov Nitov (Bungari), Giáo sư Volgan Hofs (Cộng hoà Dân chủ Ŀức) sang hợp tác nghiên cứu khoa học và giúp chúng ta chống các bệnh Da liễu.

- Sau này, khi đất nước còn bị cấm vận, từ những năm 1977-1978, ngành Da liễu đã tạo được những mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển với nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) ở các nước như : Hà Lan, Nhật Bản, Bỉ, Anh, ĐĿức, Pháp, ý, Thuỵ Sĩ..., Tổ chức Y tế Thế giới (WHOs)... Mỗi tổ chức giúp chúng ta một vùng, gồm từ 1-2 ; 4-5 ; rồi 10 đến 12 tỉnh/thành phố, với đề án hợp tác, viện trợ thuốc men, phương tiện giao thông (ô tô, xe máy, xe đạp...), tài liệu sách vở, kinh phí đào tạo cán bộ, giáo dục y tế, phục hồi chức năng, dạy nghề... và gửi cán bộ đi học tập, tham gia, dự hội nghị quốc tế và khu vực, góp phần nâng cao trình độ và uy tín của Ngành Da liễu, Viện Da liễu trên trường quốc tế.

- Từ 1992 đến nay: 100% các tỉnh, thành có dự án hợp tác về công tác phòng chống Phong với các tổ chức quốc tế như: WHO, các Hội chống Phong các nước Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Nhật, Nauy... Hàng năm, có hàng chục đoàn khách quốc tế và chuyên gia vào làm việc với Viện Da liễu. Viện đã hoàn thành kịp thời thủ tục phê duyệt dự án, chuyển kinh phí cho địa phương hoạt động và quyết toán với phía bạn, duy trì được các nguồn viện trợ hàng năm của các tổ chức gồm nhiều tỷ đồng. Nhiều đề án đặc biệt đã được thực hiện như với WHO là đề án Giám sát sau loại trừ bệnh Phong, tổ chức các lớp may, sửa chữa xe máy, học lái xe, nghề mộc... cho bệnh nhân phong và con em của họ.

- Từ 2000 đến nay, ngoài hợp tác phòng chống phong, Viện Da liễu và các tổ chức quốc tế đã mở rộng thêm hợp tác trong lĩnh vực bệnh ngoài da và các bệnh lây truyền qua đường tình dục, đặc biệt là xây dựng được một đề án ủng hộ, trợ cấp miễn phí tiền ăn, tiền xét nghiệm cho bệnh nhân Phong và một số bệnh nhân điều trị nội trú bệnh da có hoàn cảnh khó khăn tại Viện (đề án Thuỵ sỹ). Một số cán bộ của Viện đã được tổ chức Y tế thế giới mời đi làm cố vấn tại các nước trong khu vực. Viện đã mở nhiều hội nghị quốc tế và mời các chuyên gia đầu ngành nước ngoài đến Viện để giảng dạy, hội chẩn trao đổi kinh nghiệm, tăng uy tín của Viện và ngành Da liễu Việt Nam trên trường quốc tế.

3. Thành tựu bước đầu trong công cuộc chống bệnh phong :

- Từ chỗ những năm trước đây ta chỉ có điều kiện điều trị bệnh phong bằng DDS đơn thuần (đơn hoá trị liệu). Từ sau ngày thống nhất đất nước, Ngành Da liễu nắm bắt được kịp thời những thông tin mới trên Thế giới về kỹ thuật, chẩn đoán, phân loại và điều trị bệnh phong từ năm 1983 đến nay. Ngành Da liễu đã chuyển sang dùng hoá trị liệu phối hợp (đa hoá trị liệu), giúp hiệu quả trị bệnh tăng nhanh gấp bội, nhanh chóng cắt được nguồn lây, hạn chế tàn tật trên bệnh nhân phong và đề phòng vi khuẩn phong kháng thuốc. Tỷ lệ bệnh nhân bị tái phát rất thấp. Chỉ mới tính đến năm 1994, sau 10 năm thực hiện Đa hoá trị liệu (ĐHTL-MDT), tổng số bệnh nhân đã hoàn thành đa hoá trị liệu và đã được khỏi bệnh là 80.000 người / trên cả nước.

- Trong công trình nghiên cứu dài hạn nhằm rút ngắn thời gian chữa khỏi bệnh phong hơn nữa bằng Ofloxacin của Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam đã được chọn là một trong 7 Trung tâm lớn của toàn thế giới tham gia đề tài này.

- Năm 1994, Thủ đô Hà Nội đã được chọn để đăng cai việc tổ chức một Hội nghị Quốc tế quan trọng bàn về việc khống chế và tiến tới thanh toán bệnh phong trên toàn cầu. Đã có hơn 150 đại biểu, các nhà khoa học về bệnh phong, 47 Bộ trưởng Bộ Y tế các nước sang Việt Nam cùng tham gia. Hội nghị đã ra được bản “Tuyên ngôn Hà Nội” khuyến cáo mọi quốc gia phấn đấu sớm loại trừ bệnh phong ra khỏii Y tế cộng đồng, đạt được như lời kêu gọi của Đại hội Y tế Thế giới tổ chức tại Genève năm 1991 là Hãy loại trừ bệnh phong ra khỏi nền y tế cộng đồng trên toàn thế giới vào năm 2000.

- Từ năm 1995 : Chương trình phòng chống bệnh phong của Ngành Da liễu đã được Nhà nước nâng lên thành chương trình quốc gia.

- Từ năm 1995-2006 :

 Thực hiện chương trình y tế quốc gia về phòng chống bệnh Phong. Đã thực hiện thành công “Loại trừ bệnh Phong theo tiêu chuẩn WHO” vào năm 2000.

 Tính đến hết năm 2006, có 37 tỉnh, thành trong cả nước đạt được loại trừ bệnh phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam do Bộ Y tế ban hành năm 2002. (Tiêu chuẩn này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới).

- Hàng năm giám sát hoạt động chống Phong của các tỉnh trong toàn quốc.

- Chỉ đạo và thực hiện chương trình phòng chống tàn tật cho bệnh nhân Phong.

- Thực hiện dự án hợp tác giữa phòng Chỉ đạo ngành với các Hội chống Phong Hà Lan (NLR), Bỉ, Đức.

- Mở nhiều lớp tập huấn về chăm sóc bàn tay, bàn chân mất cảm giác, phòng tránh thương tích ở mắt bệnh nhân Phong cho cán bộ chuyên môn của các khu điều trị Phong và cán bộ làm công tác chống Phong.

- Tập huấn nâng cao kiến thức về bệnh Phong cho cán bộ chuyên khoa tuyến huyện tại các tỉnh trong cả nước.

- Tập huấn cho cán bộ chống phong tuyến tỉnh về chiến lược lồng ghép trong hoạt động chống phong giai đoạn mới.

- Xây dựng các tài liệu và biểu mẫu theo dõi tàn tật cho bệnh nhân Phong, mẫu Báo cáo tình hình hoạt động da liễu hàng năm, bệnh án bệnh nhân Phong, sửa mẫu M2, M3 cho phù hợp với tình hình thực tế.

- Hoàn thiện văn bản dưới luật hướng dẫn tổ chức công nhận loại trừ bệnh Phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam.

- Phân phối thuốc chống Phong, thuốc bôi ngoài da phục vụ công tác khám phát hiện bệnh Phong cho các tỉnh/thành trong cả nước.

- Giáo dục y tế toàn dân và tập huấn cho cán bộ y tế những kiến thức cơ bản về bệnh Phong ở những xã trọng điểm (xã có nhiều bệnh nhân Phong mới).

- Hàng năm tổ chức giao ban 4 phòng Chỉ đạo ngành: Viện Da liễu Quốc gia, Bệnh viện Da liễu Tp Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hoà; Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quỳnh Lập.

- Phân vùng dịch tễ bệnh Phong.

4. Hoạt động phòng chống bệnh LTQĐTD:

- Là tiểu ban Da liễu thuộc Cục phòng chống HIV/AIDS Bộ Y tế, Viện đã xây dựng Chương trình hành động phòng, chống các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đến năm 2010 trong khuôn khổ chương trình Y tế quốc gia phòng chống HIV/AIDS.

- Hàng năm tập huấn cho các giảng viên tuyến tỉnh về quản lí, giám sát và điều trị các nhiễm khuẩn LTQĐTD. Giám sát thương qui các bệnh LTQĐTD tại các tỉnh theo qui định của Bộ Y tế.

- Hoàn thành bộ tài liệu giảng dạy chuẩn quốc gia về quản lý bệnh LTQĐTD, các nhiễm khuẩn đường sinh sản cho chương trình chăm sóc sức khoẻ đường sinh sản của Bộ Y tế để thực hiện đào tạo trong hệ sản phụ khoa ở tuyến quận, huyện và xã, phường.

- Hoàn thành tài liệu giảng dạy cho các giảng viên tuyến tỉnh về quản lý, giám sát và điều trị các nhiễm khuẩn LTQĐTD trong dự án ADB. Hoàn thành hướng dẫn quản lý các bệnh LTQĐTD trong dự án “Cộng đồng phòng chống AIDS” tài trợ của Quĩ xoá đói giảm nghèo Nhật bản thông qua Ngân hàng phát triển châu á do Ban PC AIDS chủ trì. Lập kế hoạch và thực hiện phòng chống LTQĐTD với các tổ chức quốc tế: FHI, CDC, WHO, DFID.

- Tham gia biên soạn tài liệu về chuẩn quốc gia điều trị nhiễm trùng cơ hội trong HIV/AIDS.

- Xây dựng quyển Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục

5. Công tác xuất bản và tuyên truyền, giáo dục y tế chuyên ngành:

- Cuốn Nội san Da liễu được ra đời sớm nhất từ tháng 10/1950 và liên tục cho tới nay, cùng với cuốn Thông tin Da liễu được Tổng hội Y học Việt Nam xuất bản đều đặn trong mấy thập kỷ qua, đã góp phần không nhỏ vào công tác “đào tạo liên tục” trong đông đảo cán bộ chuyên khoa Da liễu.

- Những sách chuyên đề về phổ biến khoa học đã được xuất bản với số bản tương đối nhiều như: “Một số kiến thức hiện đại về bệnh phong”, “Bệnh phong đầu phải nan y (Diễn Ca)”; “Tìm hiểu về bệnh Giang mai”, “Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục”, “Da tóc thường mắc những bệnh gì ?”; “Những bệnh nấm da thường gặp”, “Bệnh vảy nến”, “Những bệnh da có mủ”, “Bệnh da nghề nghiệp”, “Phục hồi chức năng trong bệnh phong” v.v... Mỗi đầu sách đã được Nhà xuất bản Y học in với chỉ số hàng ngàn cuốn và bán rộng rãi trong dân. Hàng chục bộ phim được ra đời kể cả phim truyện và phim đèn chiếu với những nội dung thiết thực nhằm giáo dục y tế về bệnh phong và hoa liễu cho nhân dân: (Ví dụ một vài tên phim có nhan đề: “Đâu phải nan y”; “Vẫn có ngày mai”, “Nga Sơn Thanh Hoá bệnh phong”, “Bản tình ca” nói về bệnh phong. Còn bộ phim “Trót dại” thì nói về bệnh hoa liễu, với hàng trăm bản đã được phát ra kèm theo hàng chục máy chiếu phim lưu động trên những địa bàn xa xôi hẻo lánh.

Thứ Tư, 18 tháng 7, 2012

ĐẠI CƯƠNG VỀ VIÊM DA DẦU

 Viêm da dầu là bệnh da măn tính thường gặp với biểu hiện dát đỏ, vẩy da xuất hiện ở vùng da có nhiều tuyến bă hoạt động, bệnh có thể gặp ở trẻ sơ sinh, tuổi dậy th́ và hay gặp nhất ở độ tuổi từ 40-50, nam gặp nhiều hơn nữ giới.Trên thế giới viêm da dầu chiếm 2-5% dân số, tập trung nhiều ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới[16]
          Tác nhân gây bệnh viêm da dầu  đang tiếp tục được nghiên cứu. Nhiều nghiên cứu nói đến vai tṛ của nấm malassezia furfur. Ngoài nấm Malassezia, nhiều yếu tố khác cũng được đề cập đến trong bệnh viêm da dầu như­ hormon, chế độ ăn có nhiều chất béo, rượu, bia, stress, sử dụng thuốc, mỹ phẩm có chứa cồn gây khô da, và yếu tố di truyền cũng được đề cập. Viêm da dầu nặng hơn và khó chữa hơn ở bệnh nhân Parkinson, tai biến mạch máu não, ... hay người nhiễm HIV/AIDS [32], [38]
          Bệnh diễn biến dai dẳng và có các đợt bùng phát, tuy không gây biến chứng nguy hiểm song do vị trí thương tổn thường ở mặt, ở đầu ảnh hưởng tới thẩm mỹ và tâm lư của bệnh nhân, làm ảnh hưởng sâu sắc tới chất lượng cuộc sống và năng suất lao động. Chẩn đoán bệnh viêm da dầu trên lâm sàng không khó nhưng việc điều trị c̣n gặp nhiều khó khăn.
          Hiện nay người ta dùng nhiều phương pháp để điều trị viêm da dầu như: Sử dụng corticoid tại chỗ, kháng nấm tại chỗ hoặc toàn thân, selenium sulfide, zinc pyrithion, pimecrolimus, hắc Ưn, vitamin A acid, ... tuy nhiên chưa có phương pháp nào điều trị triệt để bệnh. [11], [28], [32], [35], [36], [38], [39], [17].
          Đă có nhiều công tŕnh nghiên cứu về nhiều khía cạnh khác nhau của bệnh trên thế giới, về vai tṛ của nấm malassezia trong bệnh viêm da dầu và thuốc kháng nấm trong điều trị bệnh.[13], [23], [42], [43].
          Tuy đă có một số nghiên cứu về đặc điểm lâm sàng và các yếu tố liên quan đến sự phát sinh, phát triển bệnh viêm da dầu ở Việt Nam, những nghiên cứu, nhận xét về điều trị bằng ketoconazol, corticoid bôi tại chỗ nhưng chỉ cho kết quả tạm thời[3]. Gần đây đã có công tŕnh nghiên cứu điều trị viêm da dầu bằng Itraconazole của Avner Shemer MD và nhóm cộng sự ở Israel cho kết quả tốt[12].
 viêm da dầu được coi là kết quả của tăng tiết quá nhiều chất bã do vị trí thương tổn của bệnh thường tập trung ở vùng da có nhiều tuyến bã như da đầu, lông mày, mi mắt, ống tai ngoài, vùng sau tai, rãnh mũi má, vùng trước xương ức, vùng liên bả... Mặt khác do bệnh thường xuất hiện ở những giai đoạn các tuyến bã hoạt động mạnh như giai đoạn sau dậy thì,  gặp ở người già và tuổi trước dậy thì, trừ trẻ sơ sinh. Tuy vậy theo W.Steven Pray th́ lượng chất bã được tiết ra trong viêm da dầu không nhiều hơn ở những người không bị viêm da dầu[42].
Ở Việt Nam trước đây viêm da dầu thường được gọi là chàm da dầu, chàm da ...Viêm da dầu thuộc nhóm chàm nội sinh mà theo các tác giả Preya[27], Rook[31], Jawalka[34]:
Phần lớn các loại chàm nội sinh có căn nguyên chưa rơ ràng. Viêm da dầu là mét trong các hình thái của bệnh chàm với các biểu hiện đỏ da, bong vẩy tiết nhờn. Bệnh thường xuất hiện ở người tăng tiết chất bã và ở những vị trí tuyến bã hoạt động mạnh như da đầu, ống tai ngoài, mặt vùng trước xương ức và bả vai thân mình, vị trí  gặp hơn là vùng nếp gấp như nách, kẽ dưới vú, rèn...
Năm 1874 Malassez mô tả và phân lập được nấm men từ vẩy da của bệnh viêm da dầu [22], [23]
Năm 1904 Sabouraud đã tìm thấy Malassezia, ông coi loài nấm này như nguyên nhân của gầu và đặt tên mới là Pityrosporum malassez. Những năm sau đó tên của loài nấm này có nhiều thay đổi như Cryptococus, Saccharomycis, Pityrosporum, Monilia, Dermatophyton[22].
Năm 1939 Benham đă phát hiện ra đặc tính ái mỡ của Malassezia và chúng có khả năng chuyển hóa các chuỗi axit béo dài. Đặc tính ái mỡ quyết định sự phân bố của Malassezia ở trên da người cũng như vị trí tổn thương của bệnh viêm da dầu, theo W.Steven Pray [42]
Năm 1984 Malassezia chính thức được chấp nhận là tên của giống nấm này [23].
Năm 1982 một báo cáo của FDA cho thấy nguyên nhân gây gầu da đầu chưa được rơ nhưng ở viêm da dầu có sự bất thường về vòng đời của tế bào thượng , sự di chuyển nhanh của tế bào thượng b́ ra các lớp ngoài làm cho quá trình sừng hoá chưa kịp hoàn thiện. Năm 1994 FDA lại đề cập nguyên nhân này đồng thời cũng thông báo vai tṛò của nấm Malassezia trong bệnh viêm da dầu [42].
Năm 1950 Martin Scott đă có ư kiến cần thận trọng khi nói sự kết hợp giữa Malassezia và bệnh viêm da dầu  có thể tìm thấy Malassezia ở cả da bình thường [22]. Tuy nhiên Zaidi Z cho thấy chỉ có 40% người bình thường tìm thấy Malassezia, trong khi tỷ lệ này ở bệnh nhân viêm da dầu là 82% [43].
Tình hình viêm da dầu ở trên thế giới và Việt Nam:
+ Theo Rook [31] tỷ lệ viêm da dầu ở Mỹ chiếm 1-3% dân số và khoảng 3-5% ở người lớn trong đó mức độ nhẹ và gầu ở da đầu thường gặp hơn. Ở những người HIV/AIDS viêm da dầu gặp với tỷ lệ cao, khoảng 85%[16].
+ Gặp ở mọi chủng tộc, bệnh gặp nhiều và nặng ở nam hơn ở nữ [32].
+ Bệnh thường khởi phát ở tuổi dậy th́, hay gặp nhất  40-60 tuổi. Ở trẻ sơ sinh có thể viêm da dầu nhưng bệnh thựng mất đi khi trẻ 6- 12 tháng tuổi [13],[32].
+ Bệnh tăng về mùa đông và đầu xuân, giảm vào mùa hè [32]
Ở Việt Nam  lứa tuổi bị bệnh nhiều nhất từ 20 - 49, thường thấy ở những người da dầu, bệnh hay kèm theo bệnh trứng cá.
1.1.3.1 Các hình thái lâm sàng của viêm da dầu[31]
- Ở trẻ sơ sinh: Viêm da dầu có thể xuất hiện ở các vị trí :
          + Ở đầu : Hình thái như “nôi úp” (Cradle cap).
          + Ở thân mình: (Bao gồm cả tổn thương nếp gấp và vùng quấn  ).
          + Bệnh Leiner ( Leiner disease).
- Ở người lớn:
          + Ở đầu: Biểu hiện là gầu hoặc viêm da dầu.
          + Ở mặt : ( Có thể là viêm bờ mi và viêm kết mạc).
          + Ở thân mình viêm da dầu có thể ở các hình thái :
                   Hình thái cánh hoa ( Petaloide)
                   Hình thái bong vẩy phấn
                   Hình thái nếp gấp
                   Hình thái mảng chàm
                   Hình thái viêm nang lông
          + Hình thái lan tỏa ( Có thể gây đỏ da toàn thân ).
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung giới thiệu về hình ảnh lâm sàng viêm da dầu ở người lớn.
1.1.3.2 Đặc điểm lâm sàng của viêm da dầu ở người lớn[31]:
- Ở đầu: Biểu hiện sớm nhất của viêm da dầu ở đầu là gầu, đó là các mảnh vảy da nhá bong ra từ trên nền da đầu bình thường. Nếu tiến triển lâu xung quanh các nang lông ở da đầu thường đỏ lên, bong vẩy, lan thành từng mảng có ranh giới rơ, rải rác hoặc tập trung. Mảng tổn thương có thể lan rộng và tiến ra rì chân tóc. Trường hợp mạn tính có thể thấy rụng tóc, sau tai có thể có vảy đỏ và tiết bã nhờn, có thể có vết nứt đóng vảy tiết.
- Ở mặt :
          + Viêm da dầu thường đặc trưng bằng thương tổn vùng lông mày, điểm giữa trên gốc mũi và rãnh mũi má. Thương tổn cơ bản là các dát đỏ bong vẩy da , nhờn, bóng mỡ, ranh giới rơ và thường liên quan đến thương tổn trên đầu.
          + Viêm bờ mi cũng là loại thương tổn thường thấy, bờ mi đỏ lên và có những vảy da trắng nhỏ, có thể thấy những vảy tiết vàng và các vết loét nhỏ, khi khái tạo thành các sẹo, có thể phá hủy nang lông ở bờ mi.
          + Hình thái viêm da dầu nông ở cằm thường gặp ở nam giới ở giai đoạn đầu khi mọc râu.
- Ở thân mình : Có thể thấy các hình thái sau:
          + Hình thái cánh hoa ( Petaloide) : Là hình thái thường gặp nhất và thường xuất hiện ở vùng trước xương ức, vùng liên bả vai ở nam giới . Thương tổn bắt đầu bằng những sẩn nhỏ nang lông màu đỏ nâu, phía trên có vảy tiết bã. Dần dần thương tổn lan rộng ra và liên kết với nhau tạo thành đám tổn thương có hình vòng cung trông giống như cánh hoa với vảy da trắng ở vùng trung tâm, các sẩn vảy đỏ thẫm với vảy tiết bã ở vùng ngoại vi.
          + Hình thái bong vảy phấn: Thường ở thân mình, các chi Ưt gặp hơn. Các dát đỏ trong hình thái bong vảy giống như vảy phấn hồng Gibert.
          + Ở các nếp gấp ­ nách, bẹn, sinh dục, kẽ dưới vú và rốn thì viêm da dầu biểu hiện ­ viêm kẽ , các dát đỏ ranh giới rơ và có vảy da tiết bã. Vùng sinh dục của hai giới đều có thể bị tổn thương.
- Đôi khi viêm da dầu có thể biến chứng đưa đến đỏ da toàn thân ( Hình thái lan tỏa).
- Mức độ và tiến triển của viêm da dầu có thể khác nhau, hầu hết là tiến triển mạn tính và hay tái phát.

Cho đến  nay,  đang có nhiều giả thuyết về căn nguyên của bệnh. Các yếu tố nội sinh và gen được coi là nguyên nhân của bệnh cộng với vai trò của nấm malassezia. Cơ chế bệnh sinh của viêm da dầu có thể theo một số giả thuyết sau:
1.1.4.1 Giả thuyết do nấm malassezia:
Malassezia furfur là loài nấm có ái tính với mỡ. Năm 1846 Eichstedt lần đầu tiên mô tả Malassezia furfur từ tổn thương của bệnh nhân lang ben. Năm1874 Malassezia lần đầu tiên phát hiện và phân lập nấm men từ thương tổn vảy da ở bệnh nhân viêm da dầu [22],[23].
Sabouraud cho rằng Malassezia  là loài nấm lưỡng hình, tồn tại ở cả hai pha: Men và sợi, và có sự liên quan với nhau. Tuy nhiên ông chưa chứng minh được sự chuyển dạng giữa 2 pha. Từ 1977, sự chuyển dạng từ pha men sang pha sợi đă được xác định, chứng tỏ pha men và pha sợi là các giai đoạn khác nhau trong ṿng đời của Malassezia [22].
Trong sè 7 loài Malassezia theo phân lọai của Guillot và Guelro(1996) th́ M.globosa và M.restrica hay gặp nhất trên thương tổn bệnh viêm da dầu [14], [19].
          Malassezia có thể thấy trong hệ vi sinh vật của người b́nh thường. Zaidi Z và cộng sự cho thấy ở người b́nh thường Malassezia chiếm 40%, c̣n ở bệnh nhân viêm da dầu là 82%[43]. Nghiên cứu của H.Ruth Ashbee cho thấy các tỷ lệ tương ứng là 46% và 83%[22]. Đặc biệt nghiên cứu của Zaidi Z cho thấy ở những người b́nh thường mật độ Malassezia có chỉ  sè 1+, trong khi bệnh nhân viêm da dầu ở mức 2+, 3+ hoặc 4+ và các mức này tương đương với bệnh nhẹ, trung b́nh và nặng. Điều này chứng tỏ mật độ Malassezia liên quan đến mức độ nặng nhẹ của bệnh viêm da dầu[43]
          Malassezia thường cư trú ở vùng da dầu do đặc tính ái mỡ. Theo W.Steven Pray và Aly R sự phân bố này là do Malassezia không thể tự tổng hợp acid béo của C12 hoặc các chuỗi dài hơn v́ thế nó phụ thuộc vào các acid béo do các tuyến bă sản xuất ra. Theo Byung In Ro và cộng sự [14]: Malassezia chuyển hóa chất bã tạo ra nhiều acid béo tự do từ triglycerid, chúng tiêu thụ các acid béo tự do no cần cho sự sống và để lại nhiều acid không no trên bề mặt da. Khi chuyển hóa các chất béo này Malassezia sản xuất ra các chất kích thích chuyển hóa, các chất này hoạt hóa bổ thể theo con đường tắt và gây phản ứng viêm tại chỗ [10], [18], [21], [32],[42].
          Sự đáp ứng của viêm da dầu với thuốc kháng nấm càng chứng tỏ vai tṛ của Malassezia trong bệnh viêm da dầu  [9], [10], [15], [17], [20], [24], [25], [26], [33]. Tuy nhiên giả thiết này chưa giải thích được sự đáp ứng của bệnh với corticoid tại chỗ và sự tồn tại của Malassezia trong hệ vi sinh vật của da bình thường, vì thế vai trò của Malassezia trong bệnh viêm da dầu có nhiều tranh cãi.
          Gần đây, theo một số tác giả  nguyên nhân của bệnh viêm da dầu là sự phối hợp của 3 yếu tố: Vai trò của Malassezia, sự bài tiết của tuyến bã và tính nhạy cảm của từng cơ thể [14], [19], [40].
1.1.4.2 Sự bất thường về chu chuyển của các tế bào thượng bì:
          Thượng bì là một lớp biểu mô sừng lát gồm 4 lớp tế bào: lớp đáy, lớp gai, lớp hạt, lớp sừng, riêng lòng bàn tay bàn chân thượng bì  có thêm lớp sáng. Lớp đáy là lớp tế bào sinh sản, sản xuất ra các tế bào mới để thay thế các tế bào biệt hóa dần lên các lớp tiếp theo của thượng b́. Cùng với sự chu chuyển này các tế bào dần thoái hóa, mất nhân và dẹt lại. Khi lên đến lớp tế bào trên cùng các tế bào sừng dẹt lại không có nhân, không có bào quan tạo thành từng lớp, từng lớp gọi là các lá sừng. Các lá sừng này bong theo thời gian[4],[5],[42].
          Binh thường mất 28 ngày từ lớp đáy sẽ biệt hóa dần đến lớp sừng theo Fitzpatrick[16]
          Theo W.Steven Pray [42], sự tăng bất thường quá trình thay thế và bong ra của các tế bào thượng bì là nguyên nhân gây nên vảy da dầu và gầu. Trong viêm da dầu thời gian này là 9-10 ngày, trong gầu thời gian này là 13-15 ngày.
          Tuy nhiên, cơ chế này không giải thích được hiện tượng viêm trong bệnh viêm da dầu.
1.1.4.3 Một số yếu tố khác:
          Viêm da dầu thường ở vị tập trung ở vùng da có nhiều tuyến bã như da đầu, lông mày, mi mắt, ống tai ngay sau tai, rãnh mũi má, vùng trước xương ức, vùng liên bả ... bệnh thường xuất hiện ở những giai đoạn tuyến bã hoạt động mạnh như giai đoạn sau dậy thì, Ưt gặp ở tuổi trước dậy thì (trừ trẻ sơ sinh) và người già. vì vậy, viêm da dầu được xem là kết quả của sản xuất quá nhiều chất bã. Tuy nhiên theo W.Steven Pray thì lượng chất bã được sản xuất trong viêm da dầu không nhiều hơn người bình thường[42]. Bệnh viêm da dầu có thể gặp ở trẻ sơ sinh và thường mất đi khi trẻ từ 6-12 tháng tuổi [13], [32], [41], điều này gợi ư đến vai trò của hormon do mẹ truyền sang con. Viêm da dầu giai đoạn này chính là sự đáp ứng của các tế bào tuyến bã với sự kích thích hormon từ mẹ truyền sang. Điều này càng được chứng tỏ khi bệnh thường khởi phát ở tuổi dậy thì khi các tuyến bã hoạt động mạnh do sự kích thích của hocmon androgen của người bệnh [4], [13].
          Ở nam giới sự bài tiết chất bã mạnh hơn và kéo dài hơn tới tuổi 50 và 60, nhưng ở nữ giới sự bài tiết chất bã giảm đột ngột sau khi măn kinh [14],[40].
          Thói quen gội đầu không thường xuyên, sử dụng thuốc và mỹ phẩm có chứa cồn gây khô da, thời tiết nóng  hoặc lạnh khô có thể ảnh hưởng tới sự phát sinh bệnh. Bệnh cũng hay gặp ở những người béo bệu có chế độ ăn nhiều chất béo, uống nhiều rượu bia[13].
           Theo Betty Anne Johnson tỷ lệ viêm da dầu ở người nhiễm HIV/AIDS là 85% [13]. Bệnh thường nặng, dai dẳng và kém đáp ứng với các phương pháp điều trị ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịch.
Ở những bệnh nhân bị Parkinson, liệt dây thần kinh sọ não, mất cảm giác rộng ở thân kinh cũng hay bị viêm da dầu, trên các bệnh nhân này bệnh có khuynh hướng lan rộng khó chữa. Các yếu tố stress, cơ thể suy nhược cũng là các yếu tố liên quan đến bệnh [11], [13], [38].
Một số bệnh da khác như trứng cá, trứng cá đỏ, vẩy nến cũng thường hay phối hợp với bệnh viêm da dầu. Đặc biệt trong vẩy nến, tổn thương trên da đầu rất khó phân biệt được với viêm da dầu ở cả lâm sàng và mô bệnh học.
1.1.5.1 Chẩn đoán xác định:
Chủ yếu dựa vào lâm sàng:
Tổn thương cơ bản là dát đỏ ranh giới không rơ, trên có vẩy da bóng mỡ màu vàng.
Vị trí chủ yếu da đầu sau tai, ống tai ngoài, rănh mũi má, bê mi, vùng trước xương ức và vùng liên bả. Một số vị trí Ưt gặp hơn như nách, kẽ dưới vú, rốn, bẹn, kẽ liên mông.
Triệu chứng cơ năng: Ngứa, rát
-         Đánh giá mức độ tổn thương: Viêm da dầu được chia làm 3 mức độ sau:
+ Mức độ nhẹ:
          Dát đỏ Ưt, chỉ ở 1 vị trí, khu trú và ranh giới rơ.
          Vảy da Ưt.
          Cơ năng: Ngứa, rất nhẹ hoặc không có.
+  Mức độ trung b́ình:
          Dát đỏ và vảy da rơ, có thể có nhiều vị trí nhưng khu trú và có ranh giới rơ.
          Cơ năng: Ngứa, rát rơ.
+ Mức độ nặng:
          Dát đỏ nhiều vị trí, lan tỏa và ranh giới không rơ.
          Vảy da rơ, bóng mỡ, màu vàng hoặc vàng sẫm.
          Cơ năng: Ngứa và rát bỏng nhiều.
1.1.5.2 Chẩn đoán phân biệt[31]:
- Ở da đầu, gáy: phân biệt với: vẩy nến, viêm da do chấy, lichen đơn giản mạn tính.
- Ở mặt: phân biệt với: viêm da cơ địa , luput ban đỏ, viêm da do ánh nắng, viêm da do Demodex, trứng cá, trứng cá đỏ.
- Ở thân mình: phân biệt với: Lang ben; dị ứng thuốc; đặc biệt các thuốc methyldopa, chlopromazine, cimetidine;
- Ở các nếp gấp: phân biệt với: nấm da, erythrasma, pemphigus lành tính gia đ́nh, candida.
1.1.6.1. Các quan điểm điều trị: Nhiều tác giả trong và ngoài nước đă dùng các phương pháp điều trị khác nhau như:
          -corticoid:
+ Hydrocortison kem  1%[36],[41].
+ Betamethasone 0,05%, 0,1%[25],[29]
+ Desonide gel[26]
-Thuốc chống nấm tại chỗ hoặc toàn thân:
+ Cream ketoconazole 2%[35],[36],[41],[15].
          + Ciclopirox gel[10],[15].
+ Itraconazole uống[24],[39].
+Terbinafine uống[33].
-Thuốc ức chế miễn dịch:
+ Pimecrolimus[28],[29].
+ Tacrolimus.
- Các thuốc bong vảy:
+ Zinc pyrithione: Ngoài tác dụng bong vảy c̣n có tác dụng chống nấm.
+ Salicylic 5%
+ Hắc Ưn
+ Lithium succinate
Các thuốc trên có thể sử dụng dưới dạng cream, gel hoặc dầu gội.
          - Vitamin A acid...
          Các phương pháp trên cho các kết quả khác nhau.
          Theo Lê Anh Tuấn(2006): Điều trị bằng cream ketoconazole 2% cho kết quả tốt là 93,5%, điều trị bằng cream desonide 0,1% cho kết quả tốt  là 86,6%, nhóm bôi phối hợp là 90%.

NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH VIÊM DA DẦU

NGUYÊN NHÂN GÂY BỆNH VIÊM DA DẦU

MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CHỦ YẾU DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG VIÊM DA DẦU:

Di truyền: Yếu tố di truyền đóng vai trò quyết định đến lượng dầu mà các tuyến bã nhờn tiết ra, đó là lý do vì sao cùng là da dầu nhưng người này nhiều, người kia lại ít. Nếu trong gia đình có nhiều người sở hữu làn da dầu thì chắc chắn da bạn bị dầu là do di truyền. Khi đó, việc hạn chế cũng như loại bỏ dầu trên da sẽ khó khăn. Tuy nhiên, với những người da bị dầu do di truyền, càng lớn tuổi, tuyến bã nhờn sẽ tiết ít dầu hơn và các hậu quả hay phiền toái do da dầu gây ra dần bớt nghiêm trọng đi.  

Hormone và sự mất cân bằng: Có một số loại hormone hoạt động trên các tuyến nhờn và kích thích chúng sản xuất lượng bã nhòn nhiều hơn mức bình thường. Bên cạnh đó mỗi người lại có một lượng hormone khác nhau vì vậy mức độ phản ứng với những loại hormone đó cũng khác nhau. Khi còn trẻ, lượng hormone giới tính có tên là Androgen tăng, những hormone này bên cạnh nhiệm vụ phát triển những thuộc tính về giới còn góp phần thúc đẩy hoạt động của các tuyến bã nhờn, khiến làn da sản xuất nhiều bã nhờn hơn và dễ ứ đọng lại trong lỗ chân lông. Đó cũng chính là lý do vì sao chúng ta thường hay thấy mụn ở tuổi thanh thiếu niên. 

  Da dầu cần chăm sóc kỹ hơn bình thường  

Một số người gặp phải tình trạng da tiết nhiều dầu hơn khi mang thai, ở tuổi tiền mãn kinh hoặc khi sử dụng thuốc nội tiết… đó là do sự mất cân bằng hormone trong cơ thể đã một lần nữa kích thích các tuyến bã nhờn sản sinh nhiều dầu hơn mức bình thường.  

Mỹ phẩm: Nếu da bạn thuộc loại da dầu thì đương nhiên bạn phải tránh xa các sản phẩm gốc dầu hoặc có chứa dầu vì chúng sẽ làm các vấn đề cho dầu gây ra thêm trầm trọng. Ngoài việc chọn những sản phẩm chăm sóc dành riêng cho da dầu, bạn hãy tránh đụng vào những loại kem và lotion dạng trơn dính vì nó làm tăng độ dầu của da. Không nên dùng xà bông có hạt to hoặc sữa rửa mặt có lượng cồn cao bởi những sản phẩm này dễ gây rối loạn hoạt động của lớp màng bảo vệ tự nhiên trên da và kích thích tuyến bã nhờn hoạt động.

Nguyên nhân gây ra bệnh viêm da dầu chính là do da bị kích thích từ môi trường bên ngoài như nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, do các biến động tâm sinh lý  và hóa học trên da và do sự miễn dịch trong cơ thể bị biến động gây dị ứng cho da.
Mặc dù bệnh không gây nguy hiểm đến tính mạng và không lây lan nhưng thường diễn biến rất dai dẳng, dễ trở thành mãn tính và hay tái phát nên gây ra khá nhiều phiền toái cho người bệnh.
Vì vậy khi điều trị chứng bệnh này, điều quan trọng nhất là em phải thật kiên trì tuân theo liệu trình mà các bác sĩ đã đặt ra. Khi uống hết thuốc thì phải đến khám lại ngay để có hướng điều trị tiếp cho đến khi khỏi hẳn mới thôi. Tuyệt đối không được bỏ dở giữa chừng vì như vậy không những khiến bệnh nhờn thuốc mà còn gây lãng phí công sức cũng như tiền bạc bỏ ra từ trước đến nay.
Trong trường hợp bệnh đã lây lan lên cả da đầu với những triệu chứng rất cực đoan như em mô tả trong thư thì kèm theo việc uống thuốc theo đơn của bác sĩ, em còn cần chú ý những điều sau:
- Luôn giữ vệ sinh sạch sẽ những vùng da bị bệnh. Tuyệt đối không được cậy vảy trên da vì việc làm này sẽ làm tổn thương da nghiêm trọng và khiến tình trạng bệnh xấu đi nhanh chóng.
- Đừng vì thấy tóc bết nhanh mà gội đầu nhiều bởi làm vậy sẽ càng kích thích chất nhờn tiết ra nhiều hơn thôi. Tốt nhất là em chỉ nên gội đầu tối đa 2 ngày/lần thôi.
- Mách nhỏ  phương pháp khá hiệu quả trong việc hạn chế sự tiết chất nhờn ở mặt và da đầu đó là em có thể dùng nước cốt chanh pha với nước ấm vừa phải để rửa mặt hoặc gội đầu nhé!
Viêm da dầu là một bệnh da hay gặp nhất là vào mùa xuân hè, mùa đông. Chẩn đoán xác định bệnh trên lâm sàng không khó với tổn thương cơ bản là đám da đỏ phù nề trên có vảy da bóng mỡ và cơ năng ngứa rát. Bệnh tuy không nguy hiểm nhưng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống. Cho đến nay đã có nhiều phương pháp điều trị bệnh như bôi mỡ corticoid, thuốc kháng nấm tại chỗ, uống và bôi Vitamin A acid, Zinc-pyrithion, hắc ín ... nhưng cũng chỉ cho kết quả tạm thời. Ở Việt Nam điều trị viêm da dầu cũng sử dụng nhiều phương pháp và một số bác sỹ cũng đã dùng Itraconazol đường uống nhưng kết quả ra sao, thời gian uống như thế nào thì cũng chưa có ai đánh giá, tổng kết. Chính vì thế, chúng tôi tiến hành đề tài: “ nghiên cứu kết quả điều trị viêm da dầu ở người lớn bằng thuốc Đông y  nhằm đạt mục tiêu: Đánh giá hiệu quả điều trị viêm da dầu ở người lớn bằng thuốc Đông y tại Viện nghiên cứu viêm da dầu đã cho ra kết quả điều trị đạt 85%.
Chăm sóc da dầu - 1

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra da dầu.
Các lưu ý khi chăm sóc cho da dầu: Có nhiều nguyên nhân khiến da bạn bị dầu. Biết chăm sóc da đúng cách, bạn sẽ đẹp và tự tin hơn.
1Nha đam: Đây là thành phần tự nhiên tốt cho da dầu
. Bạn dễ tìm thấy chiết xuất nha đam trong các loại sản phẩm chăm sóc da có thành phần từ thiên nhiên. Song bạn nên tìm hiểu kỹ thương hiệu và chất lượng trước khi sử dụng.
2Đất sét: Đắp mặt nạ bằng đất sét mỗi tuần hoặc hai tuần một lần sẽ giúp làm sạch da, nhưng bạn nên thử một phần trên da trước khi quyết định sử dụng
. Lý do là một số đất sét có thể làm cho da bạn quá khô, mất hết chất dầu.
Chăm sóc da dầu - 2
Nha đam có tác dụng rất tốt cho da dầu.
3Làm se lỗ chân lông: Các nguyên liệu tự nhiên như chanh, dưa chuột hay mật ong có thể giúp giảm dầu nhờn trên da và làm se lỗ chân lông. Bạn có thể dùng chúng đắp mặt nạ vài lần trọng tuần cho da sáng và đẹp hơn.
4Giữ ẩm: Da dầu cũng cần dưỡng ẩm
. Sản phẩm dưỡng da giữ ẩm chất lượng cao sẽ giúp cho da bạn trở về trạng thái bình thường. Tuy nhiên, bạn nên tránh dùng sản phẩm có benzoyl peroxide, synthetic alcohol a-xít và paraben.
5Hạn chế dùng các loại mỹ phẩm trang điểm, chăm sóc da không làm từ thiên nhiên
. Một số thành phần hóa học trong các loại mỹ phẩm có thể dễ và gây kích ứng da. Chúng khiến da càng tiết nhờn nhiều hơn.
6Nước tinh khiết: Nước máy có thành phần hóa học và nhiều tạp chất
. Bạn có thể sử dụng nước tinh khiết rửa mặt giúp an toàn cho da dầu.
7Dinh dưỡng: Rau và trái cây như dứa, đu đủ, bơ cung cấp chất xơ cho cơ thể
. Các loại rau như súp-lơ, cải bẹ có khả năng đào thải lượng estrogen dư thừa và cân bằng hormone. Những thức ăn trên giúp điều hòa tình trạng tiết nhờn.
Ngược lại, các thực phẩm như bơ, sữa, thịt đỏ có từ động vật sẽ làm gia tăng lượng dầu
. Nếu ăn nhiều các loại này, da có thể dễ bóng nhờn hơn.
Thông tin được cung cấp bởi:
GS. TS: Thành Nam

 

HẬU QUẢ CỦA BỆNH VIÊM DA DẦU

HẬU QUẢ CỦA VIÊM DA DẦU




Viêm da chính là một phản ứng của da trước các yếu tố kích thích từ môi trường bên ngoài như nhiệt độ quá nóng hoặc quá lạnh, các sang chấn cơ học và hóa học trên da hoặc các loại kháng nguyên gây dị ứng cho da.
Mặc dù các bệnh viêm da đều không nguy hiểm đến tính mạng người bệnh và không lây lan nhưng thường diễn biến rất dai dẳng và gây ra khá nhiều phiền toái cho người bệnh.

Da là một cơ quan đặc biệt, bao phủ hầu hết bề mặt của cơ thể và tiếp xúc trực tiếp với môi trường sống nên rất dễ bị tổn thương bởi các tác nhân kích thích từ bên ngoài. Viêm da (còn được gọi là chàm hoặc eczema) là một trong những biểu hiện bệnh lý ở da thường gặp nhất. Đây là một nhóm gồm nhiều loại bệnh với các nguyên nhân khác nhau, đặc trưng bởi tình trạng viêm nông trên bề mặt của da, gây ra các biểu hiện ngứa, nề đỏ, nổi mụn nước, khi vỡ gây tiết dịch và đóng vảy, hay gặp nhất là viêm da tiếp xúc, viêm da cơ địa, viêm da dầu, viêm da thần kinh, tổ đỉa và đỏ da toàn thân. Biến chứng thường gặp của tất cả các bệnh viêm da này là dày da do gãi nhiều và nhiễm trùng tại các vết trợt loét.
Một số dạng viêm da thường gặp nhất:


Viêm da tiếp xúc: Là dạng viêm da gây ra do sự tiếp xúc trực tiếp của da với một số kích thích từ môi trường như thuốc, hóa chất, sơn, cao su, các kim loại nặng hoặc ánh sáng. Hai cơ chế chủ yếu gây viêm da tiếp xúc là cơ chế dị ứng và cơ chế kích ứng. Trong cơ chế thứ nhất, phản ứng viêm da được khởi động do vai trò của phức hợp kháng nguyên – kháng thể, còn trong cơ chế thứ hai, phản ứng viêm da gây ra do độc tính trực tiếp trên da của một số hóa chất như kiềm, axit hoặc một số loại dung môi. Ban đỏ trong viêm da tiếp xúc thường xuất hiện sau khi tiếp xúc với nguyên nhân gây bệnh từ 4-24 giờ, rất ngứa, giới hạn ở vùng tiếp xúc và có ranh giới khá rõ. Vị trí tổn thương thường gợi ý rất nhiều cho việc xác định nguyên nhân gây viêm da tiếp xúc. Xác định và loại bỏ nguyên nhân gây bệnh là biện pháp quan trọng nhất trong điều trị và dự phòng viêm da tiếp xúc.


Viêm da cơ địa: Là một trong những bệnh lý ở da hay gặp nhất, thường xuất hiện ở những người có cơ địa mắc các bệnh dị ứng như hen phế quản, viêm mũi dị ứng, dị ứng thức ăn... Hơn 90% các trường hợp bệnh khởi phát ở trẻ dưới 5 tuổi và kéo dài đến tuổi trưởng thành. Nguyên nhân gây bệnh chính xác không được biết nhưng một số yếu tố có thể làm cho bệnh nặng lên như sang chấn tâm lý, thay đổi nhiệt độ hoặc độ ẩm trong không khí, nhiễm trùng da hoặc mặc quần áo gây kích ứng da. Ở trẻ em, ban đỏ và mụn nước thường xuất hiện ở mặt, da đầu, vùng quấn tã, bàn tay, bàn chân, cẳng tay, cẳng chân. Ở người lớn, ban đỏ thường chỉ tái diễn ở một vài vị trí, chủ yếu là ở cánh tay, bàn tay, khuỷu tay và khoeo chân. Ban đỏ trong viêm da cơ địa rất ngứa. Viêm da cơ địa không thể điều trị khỏi, dùng các thuốc kháng histamin thế hệ 1 và mỡ corticosteroid bôi tại chỗ giúp giảm khá tốt biểu hiện ngứa. Corticosteroid đường toàn thân chỉ nên sử dụng trong những trường hợp bệnh dai dẳng. Lưu ý giữ ẩm da, tránh tiếp xúc với các chất gây kích ứng da và các tác nhân làm nặng bệnh.

Viêm da dầu: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng bong vảy ở mặt và da đầu. Viêm da dầu thường xảy ra ở trẻ nhỏ dưới 3 tháng tuổi hoặc ở người lớn trên 30 tuổi, bệnh thường gặp hơn ở nam giới, có tính gia đình và nặng lên vào mùa lạnh. Viêm da dầu thường xuất hiện từ từ, gây ra vảy gầu khô và dính ở da đầu, đôi khi gây ngứa và không làm rụng tóc. Trong những trường hợp nặng, vảy da có thể xuất hiện ở sau tai, trong ống tai, cung lông mày, sống mũi, quanh mũi, ngực hoặc vai. Vảy ở da đầu có thể được điều trị với các loại dầu gội ngứa pyrithion kẽm, selenium sulfid, salicylic acid, lưu huỳnh hoặc ketoconazol. Những trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu. Lưu ý khi dùng các loại kem chứa corticosteroid cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason.

Đỏ da toàn thân: Là một phản ứng viêm nặng gây đỏ da, nứt kẽ và bong tróc da toàn bộ cơ thể. Thuốc là nguyên nhân chủ yếu gây đỏ da toàn thân, gặp nhiều nhất thường do các thuốc penicillin, sulfonamid, isoniazid và barbiturat. Đỏ da toàn thân cũng có thể là một biến chứng nặng của một số bệnh ngoài da như viêm da cơ địa, vảy nến, viêm da tiếp xúc, viêm da liên cầu hoặc là biểu hiện của một số bệnh ác tính về máu. Đỏ da toàn thân có thể khởi phát nhanh hoặc chậm, da lúc đầu thường đỏ và căng, sau đó trở nên dày và bong tróc, đôi khi có rụng tóc và móng. Bệnh nhân thường ngứa nhiều, có thể bị sốt hoặc hạ thân nhiệt, da có thể bị nứt kẽ và tiết dịch, dễ dẫn đến nhiễm trùng. Việc điều trị cần được tiến hành sớm trong bệnh viện, các biện pháp chủ yếu là dự phòng nhiễm trùng bằng kháng sinh, tăng cường bù dịch và bổ sung dinh dưỡng. Các loại corticosteroid đường toàn thân như prednison, prednisolon được dùng trong những trường hợp bệnh nặng hoặc không đáp ứng với các điều trị khác. Loại trừ nguyên nhân gây bệnh cũng là biện pháp hết sức quan trọng.

Viêm da thần kinh gây ra do tình trạng gãi hoặc chà xát kéo dài tại một vị trí.Bệnh thường xảy ra ở những người trong độ tuổi từ 20-50. Nguyên nhân đầu tiên gây ngứa thường do viêm da tiếp xúc, nhiễm nấm hoặc ký sinh trùng, nhưng sau khi nguyên nhân đã được giải quyết, người bệnh vẫn tiếp tục gãi ở vị trí cũ (có thể do yếu tố tâm lý). Bản thân động tác gãi có thể làm ngứa tăng lên và càng thúc đẩy người bệnh gãi, hậu quả là làm cho vùng da tại chỗ trở nên dày và nâu sạm (liken hóa). Những đám da này có ranh giới tương đối rõ, thường nằm ở da đầu, cổ, cổ tay, vai, cánh tay và cổ chân. Việc điều trị thường gặp nhiều khó khăn và mất nhiều thời gian. Cắt ngắn móng tay, mang găng cao su và hạn chế tối đa động tác gãi là điều hết sức quan trọng. Các loại kem hoặc mỡ cortisteroid bôi tại chỗ có tác dụng tốt giúp làm mềm da. Sử dụng các thuốc an thần hoặc gây ngủ có thể giúp giảm động tác gãi khi ngủ.

Tổ đỉa: Là một dạng viêm da mạn tính không rõ căn nguyên, đặc trưng bởi tình trạng nổi mụn nước, ngứa ở gan bàn tay và mặt bên của các ngón chân, đôi khi ở gan bàn chân. Bệnh thường gặp ở người trẻ tuổi, một số yếu tố có thể làm bệnh nặng lên như căng thẳng về tâm lý, tiếp xúc với các kim loại như niken, crôm, coban. Mụn nước của tổ đỉa thường có màu đỏ, rất ngứa, tiết nhiều dịch và có thể đóng vảy dày. Bệnh thường tiến triển từng đợt kéo dài 2-3 tuần. Điều trị bằng cách đắp gạc ướt tẩm kali permanganat hoặc nhôm acetat có thể giúp giảm triệu chứng. Các loại corticosteroid bôi tại chỗ tác dụng mạnh như fluocinolon, clobetason propionat có hiệu quả khá tốt trong đợt cấp của bệnh.
Thông tin được cung cấp bởi:
GS.BS  Phạm Na